Luật dân sự cá nhân: Khái niệm, đặc điểm và nội dung
Share:
Luật dân sự cá nhân là một trong những lĩnh vực quan trọng của luật dân sự, liên quan đến các quyền và nghĩa vụ của cá nhân trong các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân. Bài viết này sẽ giới thiệu về khái niệm, đặc điểm và nội dung của luật dân sự cá nhân theo Bộ luật dân sự năm 2015.
Khái niệm luật dân sự cá nhân
Theo Điều 16 Bộ luật dân sự năm 2015 (BLDS 2015), năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là tiền đề, điều kiện cần thiết để cá nhân có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, là một mặt của năng lực chủ thể.
Cá nhân là chủ thể nguyên sinh, đầu tiên của các quan hệ xã hội, là “tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Cá nhân - con người là trung tâm của các chính sách kinh tế, xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện với mục đích phục vụ con người, vì con người. Trong các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân mà luật dân sự điều chỉnh thì cá nhân là chủ thể nguyên sinh, đầu tiên và các chủ thể khác tham gia vào các quan hệ dân sự cũng thông qua hành vi của con người.
Đặc điểm luật dân sự cá nhân
Luật dân sự cá nhân có các đặc điểm sau:
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân do Nhà nước ghi nhận trong các văn bản pháp luật mà nội dung của nó phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội; vào hình thái kinh tế - xã hội tại thời điểm lịch sử nhất định. Mặc dù được ghi nhận như là một bộ phận không thể thiếu được của cá nhân, như là một thực thể trong các quan hệ xã hội, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không phải do tạo hoá ban cho như những nhà chính trị, triết học tư sản thường suy diễn và kết luận, mà do Nhà nước ghi nhận và quy định cho công dân của Nhà nước đó. Bởi vậy, năng lực pháp luật dân sự của công dân mang bản chất giai cấp.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có tính giai cấp sâu sắc, phụ thuộc vào chế độ chính trị, bản chất Nhà nước: Cùng với sự phát triển của lịch sử, pháp luật của các quốc gia đều quy định về năng lực pháp luật cho cá nhân. Qua các giai đoạn khác nhau của lịch sử, năng lực pháp luật dân sự được quy định khác nhau với những nội dung ngày càng được mở rộng. Mỗi quốc gia khác nhau sẽ quy định năng lực pháp luật dân sự cho cá nhân một cách khác nhau, điều đó phụ thuộc vào chế độ chính trị, bản chất giai cấp, điều kiện kinh tế - xã hội, sự tác động của phong tục, tập quán…. Ngay trong một quốc gia, qua các giai đoạn khác nhau của lịch sử xã hội, quy định về năng lực pháp luật dân sự cũng khác nhau.
Năng lực pháp luật của cá nhân là bình đẳng: Khoản 2 Điều 16 BLDS 2015 quy định: “Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau”. Đây là một nguyên tắc cơ bản của luật dân sự, thể hiện tinh thần công bằng và dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Năng lực pháp luật dân sự bình đẳng không phụ thuộc vào giới tính, tuổi tác, dân tộc, tôn giáo, trình độ học vấn, tình trạng kinh tế - xã hội hay bất kỳ yếu tố nào khác của cá nhân.
Nội dung luật dân sự cá nhân
Nội dung luật dân sự cá nhân bao gồm các vấn đề sau:
Bắt đầu và chấm dứt năng lực pháp luật dân sự của cá nhân: Theo Điều 17 BLDS 2015, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. Trong trường hợp người mất tích hoặc được tuyên bố là đã chết theo quy định của pháp luật thì năng lực pháp luật dân sự của người đó chấm dứt theo thời điểm quy định trong quyết định tuyên bố mất tích hoặc đã chết.
Hạn chế năng lực hành vi dân sự của cá nhân: Năng lực hành vi dân sự là khả năng của cá nhân tự quyết định và thực hiện các hành vi dân sự để thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật dân sự. Năng lực hành vi dân sự là một mặt khác của năng lực chủ thể. Theo Điều 18 BLDS 2015, mọi cá nhân từ đủ 15 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự toàn vẹn.